TÌM HIỂU MÙA CHAY
1.Mùa Chay có bao nhiêu ngày chay tịnh:
Mùa Chay có 40 ngày chay tịnhnhưng theo lịch Công Giáo - năm Phụng Vụ 2013 - 2014, bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro (ngày 5/3/2014) và kết thúc vào thứ Bảy Tuần Thánh (ngày 19/4/2014). (Tính luôn Tam Nhật Thánh). Vậy theo bạn, Mùa Chay có bao nhiêu ngày?
Bạn và tôi cũng tính nhé:
Cách 1:
*Chúa Nhật I Mùa Chay đến Thứ Bảy Tuần Thánh gồm 6 tuần (Tính luôn Tam Nhật Thánh):
7 ngày x 6 tuần = 42 ngày
*Thứ Tư Lễ Tro, thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy : 4 ngày
42 ngày + 4 ngày = 46 ngày
Cách 2:
Tháng 3 có 31 ngày ; thứ Tư Lễ Tro (5/3)
31- 4 = 27 (ngày)
Tháng 4: Thứ Bảy Tuần Thánh (19/4) -Tính luôn Tam Nhật Thánh
Ngày 1 đến ngày 19 tháng Tư : 19 ngày
27 + 19 = 46 (ngày)
Theo hai cách tính trên thì có 46 ngày (Chưa chắc đã đúng!)
Nếu không tính Thứ Sáu và Thứ Bảy (Tam Nhật Thánh) thì có : 44 ngày
Tại sao lại nói 40 ngày chay tịnh ???
2.Lễ Phục Sinh là ngày nào trong năm:
Chúng ta thấy các ngày Lễ trọng Công Giáo trong năm thường ấn định ngày cụ thể, ví dụ:
-Lễ Giáng Sinh : 25/12
-Lễ Thánh Giuse : 19/3
-Lễ Thánh Phêrô và Phaolô : 29/6
-Lễ Đức Mẹ Lên Trời : 15/8
-Lễ các Thánh : 01/11; ….
Vậy Lễ Phục Sinh là đại Lễ mà không ấn định ngày trong năm ???
3.Ý nghĩa của ngày thứ Tư Lễ Tro:
4.Chúa Nhật Phục sinh từ năm 2014-2020:
Ngày Chúa Nhật Phục Sinh, 2014–2020
Của Giáo hội Công Giáo và Chính Thống giáo
|
|
Pet TB
Xin các bạn tham khảo các bài viết dưới đây:
H. 40 ngày mùa Chay được tính thế nào?
Thời gian mùa chay trước lễ Phục Sinh thường được gọi là 40 ngày chay tịnh, nhưng thực ra có 46 ngày tính từ thứ 4 lễ Tro cho tới Chúa Nhật Phục Sinh. Vậy tại sao chỉ nói có 40 ngày?
T. Chúng ta cần trở ngược lại thời sơ khai của Giáo Hội, các môn đệ đầu tiên là những người Do Thái vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm về tầm quan trọng của ngày Sabat, vẫn được xem là ngày thứ 7. Bởi vì ngày Sabat được ghi trong sách Khởi Nguyên là thời gian để nghỉ ngơi và thờ phượng. Tuy nhiên Chúa Ki-tô lại phục sinh vào Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần. Chính các tông đồ và các ki-tô hữu đầu tiên đã thấy được rằng sự Phục Sinh là một cuộc sáng tạo mới nên họ chuyển ngày Sabat sang Chúa Nhật chứ không là còn là thứ 7 như quan niệm của Do Thái nữa.
Đối với Ki-tô giáo, mọi Chúa Nhật đều là những ngày cử hành sự phục sinh của Chúa Ki-tô, các tín hữu không được ăn chay, và làm những hình thức đền tội trong các ngày này. Các Chúa Nhật không được tính vào thời gian chay tịnh mùa Chay.
Vậy để có được 40 ngày chay tịnh như Chúa Giê-su, mùa Chay bao gồm 6 tuần lễ với 6 ngày ăn chay trong tuần, cộng với 4 ngày từ thứ tư lễ Tro cho tới thứ 7 trước Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. 36 + 4 = 40.
H. Mùa Chay bắt đầu khi nào?
Mùa Chay được bắt đầu với thứ tư lễ Tro trước lễ Phục Sinh 46 ngày. Tuy nhiên, vì lễ Phục Sinh không được ấn định vào một ngày cố định cho mỗi năm, do vậy, phải biết cách tính lễ Phục Sinh theo Tây lịch.
H. Ngày cử hành Lễ Phục Sinh hàng năm được tính toán thế nào?
T. Lễ Phục Sinh không có một ngày cử hành nhất định hàng năm như lễ Giáng Sinh với ngày 25-12. Công đồng Nicea (325) ấn định ngày lễ Phục Sinh hàng năm là Chúa Nhật thứ nhất kể từ ngày rằm đầu tiên của tiết xuân phân. Tưởng cũng nên biết rằng lễ vượt qua của Do thái là ngày 14 tháng Nissan, tức là trước ngày trăng tròn của tiết xuân phân. Và các giáo hội Đông phương cũng lấy ngày này để mừng lễ Phục Sinh.
Để có thể tính được ngày lễ Phục Sinh hàng năm của Công Giáo, cần đi theo trình tự sau:
- ngày xuân phân hàng năm là 21-3 (theo tây lịch)
- ngày trăng tròn (ngày 15 theo âm lịch) đầu tiên sau ngày 21-3 này
- Chúa Nhật thứ nhất tính từ ngày trăng tròn này, đó là Chúa Nhật Phục Sinh.
Lm. Pr. Nguyễn Đức Thắng
3.Thứ Tư Lễ Tro: Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ
Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro.
Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thể vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Ðầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay "Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình . . . Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ Tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, Thánh Phaolô ngoại thành, Thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo Hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo Hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đi kiệu, Ðức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành Thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ Thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội.
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước Thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng Thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc Âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro
Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhậm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhậm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do Thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng, nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ Tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như màu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.
3. câu hỏi về Mùa Chay:
Trong bài : 28 câu hỏi về Mùa Chay của Giáo phận Thái Bình
Câu 10. Mùa Chay bắt đầu khi nào ?
Mùa Chay bắt đầu vào ngày thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay lập tức trước khi Thánh Lễ Tiệc Ly của Chúa (Thứ Năm Tuần Thánh). Trong suốt giai đoạn này được kể như là một sự thống nhất:
1) Thứ tư Lễ Tro,
2) Các Chúa Nhật, I-II ; III, IV, V ; và Chúa Nhật Lễ Lá,
3) Lễ Truyền Dầu.
4) Các ngày lễ.
Pet TB (Sưu tầm)
-(còn tiếp bài sau)
Bạn có thích bài viết này...?
|
Nhận tin miễn phí hằng ngày!
|
Follow us!
|
Nếu không lầm thì hình như Mùa chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc trước Thánh Lễ Tiệc Ly vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh thì phải.
Trả lờiXóaMỗi cách hiểu khác nhau. Không tính Tam nhật Thánh vào MC hoặc tính vào MC thì vẫn 40 ngày chay tịnh
Trả lờiXóa6x6 tuần =36 (không tính các ngày CN); Tam nhật vẫn chay tịnh;
4 ngày (tư,năm, sáu, bảy sau lễ Tro)
36 + 4 = 40 ngày
sau mùa chay có thể tổ chức lễ cưới nhà thờ ko các bạn
Trả lờiXóaTrong Tuần Bát Nhật Phục Sinh có thể cử hành Nghi thức Hôn phối trong Thánh Lễ bạn ạ! Nhưng các bài đọc Sách Thánh thì đọc theo ngày của tuần đó. Các bài hát theo phụng vụ chứ không hát theo lễ Hôn phối. Bài hát kết lễ có thể hát bài "Diễm tình ca". Tôi thấy con của Thầy Bảng (thầy dạy Hôn nhân) cũng tổ chức Nghi thưc HP trong Tuần Bát Nhạt
Xóa